Nhằm giúp nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của viên chức ngành giáo dục, trong thời gian qua Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã chuyển quản lí viên chức từ mã ngạch sang hạng chức danh nghề nghiệp. Ngoài những yêu cầu về trình độ chuyên môn và các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp cần có của viên chức khi được xếp hạng hoạch thăng hạng phải được bồi dưỡng và cấp chứng chỉ chuẩn chức danh nghề nghiệp mình đang giữ hoặc muốn thăng hạng.
Sau đây, Mực Đỏ xin gửi tới thầy/cô bài thu hoạch nâng hạng giáo viên tiểu học hạng 2. Hi vọng sẽ giúp thầy/cô tham khảo để hoàn thành tốt bài thu hoạch một cách dễ dàng và đạt kết quả cao.
Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Tiểu học hạng 2
PHẦN I: CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG CHUẨN CHỨC DANH
1. Tầm quan trọng của các chuyên đề.
Cùng với sự phát triển của đất nước trong công cuộc “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” mà Đảng và nhân dân ta đã xác định thì điều cần thiết nhất là phải nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực thực sự có chất lượng. Để thực hiện được mục tiêu ấy, trước hết phải biết nuôi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực ngay từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành và trong suốt cuộc đời của mỗi cá nhân về các mặt trí lực, tâm lực, thể lực, các phẩm chất đạo đức – nhân cách công dân, trình độ học vấn, chuyên môn hoá và văn hoá. Thực hiện mục tiêu này là nhiệm vụ của ngành Giáo dục – Đào tạo mà lực lượng quan trọng là đội ngũ giáo viên có chất lượng. Chất lượng của đội ngũ GV, đó là chất lượng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chất lượng nghề nghiệp, Chất lượng của đội ngũ GV được quyết định bởi chất lượng đào tạo ban đầu và quá trình tự học, rèn luyện và tự bồi dưỡng của GV trong quá trình công tác.
2. Lý do tham gia lớp bồi dưỡng
Là một giáo viên dạy Tiểu học, bản thân tôi luôn cố gắng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu về trình độ giáo viên, đồng thời để đủ điều kiện thăng hạng theo chức danh nghề nghiệp giáo viên hạng II.
Qua quá trình được học tập và nghiên cứu cũng như sự hướng dẫn, truyền đạt của các thầy, cô giáo phụ trách giảng dạy Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học ở hạng II, qua 10 chuyên đề đã học, tôi nắm bắt được một số kiến thức thông qua các chuyên đề mà các thầy cô đã bồi dưỡng tôi đã nắm bắt được xu hướng phát triển của giáo dục, tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, các mô hình trường học mới. Vận dụng sáng tạo và đánh giá được việc vận dụng những kiến thức về giáo dục học và tâm sinh lý lứa tuổi vào thực tiễn giáo dục học sinh tiểu học của bản thân và đồng nghiệp.
Qua quá trình học tập và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn, truyền đạt của các thầy cô phụ trách giảng dạy Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên Tiểu học hạng II gồm 10 chuyên đề, đó là:
Chuyên đề 1: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chuyên đề 2: Xu hướng quốc tế và đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam.
Chuyên đề 3: Xu hướng đổi mới quản lí giáo dục phổ thông và quản trị nhà
trường tiểu học.
Chuyên đề 4: Động lực và tạo động lực cho giáo viên
Chuyên đề 5: Quản lí hoạt động dạy học và phát triển chương trình giáo dục
nhà trường tiểu học.
Chuyên đề 6: Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II
Chuyên đề 7: Dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu trong
trường tiểu học.
Chuyên đề 8: Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục trường tiểu học
Chuyên đề 9: Quản lí hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở
trường tiểu học.
Chuyên đề 10: Xây dựng môi trường văn hoá, phát triển thương hiệu nhà
trường và liên kết, hợp tác quốc tế.
PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA CÁC CHUYÊN ĐỀ ĐÃ HỌC
Chuyên đề 1.
Chuyên đề cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về nội dung, cách thức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đặc điểm nền hành chính nước ta; ý nghĩa quá trình ra đời và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với đất nước Học thuyết Mác – Lênin đã giải thích một cách khoa học về nhà nước, trong đó có vấn đề nguồn gốc của nhà nước.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước là một phạm trù lịch sử, nghĩa là có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.
Như vậy, nhà nước xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Những tiền đề kinh tế – xã hội dần đến sự ra đời của nhà nước là sự xuất hiện của chế độ tư hữu, sự phân chia xã hội thành các giai cấp, tầng lớp mà lợi ích cơ bản là đối kháng, dẫn đến mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp.
Nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại, được thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng ở Hi Lạp, La Mã; sau này được các nhà triết học, chính trị và pháp luật tư sản thế kỉ XVII – XVIII ở phương Tây phát triển như một thế giới quan pháp lí mới. Tư tưởng nhà nước pháp quyền dần dần được xây dựng thành hệ thống, được bổ sung và phát triển về sau này bởi các nhà chính trị, luật học tư sản thành học thuyết về nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là hình thức phân công và tổ chức quyền lực nhà nước.
Vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được đề cập nhiều lần trong các Văn kiện Đại hội từ Đại hội VIII, IX, X đến XI; được đưa vào Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001); được cụ thể hoá trong
một số Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đặc biệt, trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đề cập khá toàn diện về nhà nước pháp quyềnXHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cương lĩnh xác định “có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đẳng Cộng sản lãnh đạo” là một đặc trưng của xã hội XHCN, và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là một phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh khẳng định:“Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức.
Chuyên đề 2:
Chuyên đề cung cấp cho người học tổng quan kinh nghiệm quốc tế về giáo dục phổ thông và một số vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Phát triển GDPT trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế:
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Mục tiêu đổi mới được Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội quy định: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả GDPT; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyến nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nên giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, tri, thế, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi HS.” Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, chương trình GDPT mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực, tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp người học tích luỹ được kiến thức phổ thông vững chắc; biết vận dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống và tự học suốt đời; có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp; biết xây dựng và phát triển hài hoà các mối quan hệ xã hội; có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú; nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại.
+ Phát triển GDPT gắn với nhu cầu phát triển của đất nước và những tiến bộ của thời đại về khoa học – công nghệ và xã hội;
+ Phát triển GDPT phù hợp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam, các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục;
+ Phát triển GDPT tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của HS;
+ Phát triển GDPT đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát triển bền vững và phồn vinh.
Chuyên đề 3:
Chuyên đề cung cấp cho người học những kiến thức về xu hướng đổi mới trong quản lý giáo dục của một số quốc gia trên thế giới; những bài học kinh nghiệm áp dụng vào thực tiễn giáo dục nước ta. Phát triển nhà trường trước yêu cầu hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Theo quy định của Luật Giáo dục và đảm bảo mục tiêu giáo dục, ở Việt Nam hiện đang tồn tại hai mô hình trường là trường công lập và ngoài công lập. Bản thân trường ngoài công lập cũng chia thành nhiều loại hình khác nhau: trường tư thục, trường có yếu tố nước ngoài và trường quốc tế. Đe đáp ứng yêu cầu phát triển nền giáo dục Việt Nam theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần tuân theo xu thế phổ biến của thế giới hiện hay là trao quyền nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục và chấp nhận tạo điều kiện cho sự phát triển của giáo dục ngoài công lập.
Để đảm bảo mục tiêu phát triển đất nước và giáo dục, hai loại hình này sẽ được tồn tại song song. Đối với mô hình trường ngoài công lập, có hai vấn đề về cách nhìn. Một là, cái nhìn định kiến và thiếu thiện cảm của xã hội đối với khu vực giáo dục tư. Tình trạng này là kết quả của lối hoạt động dựa trên tầm nhìn ngắn hạn của khá nhiều trường ngoài công lập, và tầm nhìn ngắn hạn đó là kết quả của chính sách coi nhẹ tầm quan trọng của giáo dục ngoài công lập. Hai là, nhận thức không đầy đủ của giới làm chính sách về vai trò của giáo dục ngoài công lập cũng như thiếu vắng một quan điểm rõ ràng và nhất quán đối với giáo dục với tư cách một hoạt động dịch vụ. Nhà nước bị lúng túng trong việc quản lí với các trường ngoài công lập. Nhìn chung, diễn biến của chính sách đối với trường ngoài công lập thời gian qua đã thể hiện một mâu thuẫn thường trực giữa xu hướng thị trường và quan điểm muốn kiểm soát nhà trường tránh khỏi tự do hoá và thương mại hoá. Diễn biến của chính sách thể hiện những diễn biến trong nhận thức tuy đã trải qua nhiều thay đổi vẫn chưa bắt kịp thực tế và do đó đã gây ra mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột; đã để lại những hậu quả có thể dẫn đến sụp đổ nhiều trường ngoài công lập. Nói cách khác, các nhà làm chính sách không đánh giá đúng tầm quan trọng tất yếu của giáo dục ngoài công lập, đã không nhìn thấy và tạo điều kiện để phát triển điểm tích cực, trái lại đã quá chú trọng vào việc kiềm chế mặt tiêu cực của mô hình này trong thực tế, kìm hãm sự phát triển lành mạnh của mô hình này. Để phát triển mô hình trường ngoài công lập cần những giải pháp sau: Thứ nhất là giải quyết bất cập về chính sách đổi với trường ngoài công lập. Trước hết là chính sách về sở hữu. Hiện nay chỉ có hai hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân đối với các trường. Đáng lẽ cần phải có ba hình thức sở hữu: (1) trường công thuộc sở hữu nhà nước, thực hiện những nhiệm vụ mà nhà nước giao; (2) trường tư vì lợi nhuận thuộc sở hữu tư nhân, đáp ứng nhu cầu của thị trường và tìm kiếm lợi nhuận; (3) trường dân lập thuộc sở hữu cộng đồng, phi lợi nhuận, có sứ mạng bù đắp cho những khiếm khuyết của thị trường và phục vụ lợi ích công. Trong thực tế, sở hữu nhà nước đang bị biến dạng vì các trường công vận hành nhiều chương trình nhằm mục đích tạo nguồn thu chứ không tập trung cho việc thực hiện những nhiệm vụ mà nhà nước giao phó. Thứ hai là chính sách về quản trị. Vì không thừa nhận trường có thể hoạt động thực sự như một doanh nghiệp, và vì tâm lí muốn kiềm chế tính chất vì lợi nhuận của các trường, Nhà nước đã quy định hội đồng quản trị của các trường ngoài công lập buộc phải có một số thành phần đương nhiên. Chính sách này xuất phát từ mục đích tốt, muốn cho giới học thuật và những người có trách nhiệm bảo vệ lợi ích công có tiếng nói và tham gia cơ cấu ra quyết định của các trường ngoài công lập để mô hình trường không bị thương mại hoá hoặc phát triển theo đường lối tiêu cực.
Chuyên đề 4
Chuyên đề cung cấp cho người học các khái niệm về động lực, tạo động lực,
phương pháp và công cụ tạo động lực; đặc điểm nghề nghiệp của giáo viên tiểu học và hướng tạo động lực cho giáo viên tiểu học.
Tạo động lực thông qua tiền lương, tiền công; Tạo động lực thông qua tiề thưởng; Tạo động lực thông qua phụ cấp, phúc lợi và dịch vụ. Sự đảm bảo về lợi ích cho GV (lương, thưởng, thu nhập thêm…) là một trong những nhân tố ảnh hưởng quan trọng. Hiện nay với mức lương của GV nói chung, đặc biệt là mức lương khởi điểm của GV trẻ là quá thấp so với mức sinh hoạt hiện nay thì phương pháp này càng quan trọng. Một khi hoàn cảnh kinh tế, cuộc sống còn nhiều khó khăn thì GV có ít thời gian đầu tư công sức cho giảng dạy, bởi họ còn phải dành thời gian lo cơm, áo, gạo, tiền đảm bảo mưu sinh… thì khó có thể hài lòng và hết tâm với công.
Tạo động lực đó chính là môi trường làm việc thông qua đào tào bồi dưỡng.
Chuyên đề 5.
Chuyên đề cung cấp cho người học một số mô hình nhà trường, đặc trưng của các mô hình đó; mô hình trường học mới đang áp dụng ở tiểu học hiện nay, những ưu điểm, nhược điểm trong quá trình triển khai và bài học kinh nghiệm trong ứng dụng mô hình quản lí nhà trường theo mô hình trường học mới.
Theo 5 loại mô hình đó là:
1, Mô hình hiệu quả chú trọng đến giáo dục cải thiện và nâng cao kết quả học tập.
2, Mô hình cộng đồng hội tụ được sự tham gia của hội cha mẹ phụ huynh, hướng chủ yếu nâng cao dân trí cho người học
3, Mô hình tích cực đánh giá cao sự hình thành năng lực của người học
4, Mô hình chìa khóa vàng, được cấu tạo nhằm chăm sóc giáo dục học sinh với sự phối hợp của rất nhiều người liên quan tạo thành một xã hội thu nhỏ.
5, Mô hình trường học mới Tạo môi trường thân thiện phát huy tinh thần tự chủ, tăng cường chủ động cho giáo viên.
Chuyên đề 6.
Chuyên đề cung cấp cho người học thực trạng đội ngũ giáo viên tiểu học theo yêu cầu của chuẩn năng lực nghề nghiệp; phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, ổn định cơ cấu theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
-Các yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ giáo viên tiểu học trước các yêu cầu đổi mới chương trình GDPT.
– Nắm vững mục tiêu, nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa của các môn học được phân công giảng dạy.
– Nắm vững các quy định về nội dung, phương pháp hình thức tổ chức kiểm tra, đánh giá học tập rèn luyện của học sinh.
+ Về kế hoạch phát triển đội ngũ trước yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục.
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn thành quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV và cán bộ quản lí cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới GDPT, trong đó đặc biệt chú trọng đến bậc tiểu học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai một số chương trình, dự án nhằm tổ chức xây dựng đội ngũ GV cốt cán, bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ GV cốt cán đó cho các cấp học phổ thông theo địa bàn từng trường, từng huyện, từng tỉnh, trong đó đặc biệt chú trọng cấp Tiểu học. Đội ngũ này được tuyển từ những GV có phẩm chất tốt, trình độ chuyên môn giỏi, trình độ đào tạo cao ở mỗi trường tiểu học để phục vụ cho nhiệm vụ đổi mới chương trình GDPT bậc Tiểu học.
Chuyên đề 7.
Chuyên đề cung cấp cho người học quan niệm về người giáo viên hiệu quả; mẫu
giáo viên theo yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông; phát hiện học sinh có năng khiếu và bồi dưỡng học sinh giỏi trong dạy học ở trường tiểu học.
Người giáo viên hiệu quả phải có năng lực, là những thuộc tính tâm lí giúp họ hoàn thành tốt hoạt động dạy học và giáo dục. Năng lực của GV được chia thành ba nhóm: nhóm năng lực dạy học, nhóm năng lực giáo dục, nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm.
1) Nhóm năng lực dạy học:
– Năng lực hiểu HS trong quá trình dạy học và giáo dục. Năng lực hiểu HS là khả năng “thâm nhập vào thế giới bên trong” của trẻ, hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng cũng như khả năng quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lí của HS trong quá trình dạy học và giáo dục. Năng lực hiếu HS của GV biểu hiện ở:
+ Khả năng xác định kiến thức đã có ở HS, từ đó xác định mức độ và lượng kiến thức mới cần cung cấp cho HS.
+ Khả năng dự đoán được những thuận lợi và khó khăn, xác định được mức độ căng thẳng ở HS khi thực hiện các nhiệm vụ học tập.
+ Khả năng quan sát tinh tế và có thể xây dựng những biểu hiện chính xác về lời giảng của mình đã được HS khác nhau lĩnh hội như thế nào. Vì vậy, muốn hiểu HS, GV phải luôn quan tâm gần gũi các em với tình thương và trách nhiệm; phải nắm vững chuyên môn, hiểu biết đầy đủ về tâm lí của trẻ và kết hợp với những phẩm chất tâm lí cần thiết.
– Tri thức và tầm hiếu biết của người thay giáo. Tri thức và tầm hiểu biết của GV là năng lực cơ bản, năng lực trụ cột của nghề dạy học. Nhà giáo dục người Nga Xukhômlinxki viết: “Khi nào tầm hiểu biết của GV rộng hơn chương trình của nhà trường một cách vô bờ bến, thì lúc đó GV mới là một thợ cả lành nghề, một nghệ sĩ, một nhà thơ của quá trình sư phạm”. Tri thức và tầm hiểu biết của GV biểu hiện ở:
+ Nắm vững và hiểu biết rộng về môn mình phụ trách.
+ Thường xuyên theo dõi, nắm bắt xu hướng phát triển và phát minh trong khoa học môn mình phụ trách và các khoa học lân cận.
+ Biết tiến hành nghiên cứu khoa học.
+ Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình. Để có năng lực này, người GV phải có nhu cầu mở rộng tri thức và tầm hiểu biết, có phương pháp tự học.
– Năng lực lựa chọn và khai thác nội dung học tập. Người GV có năng lực lựa chọn và khai thác nội dung học tập biết cách:
+ Lựa chọn khai thác nội dung học tập sao cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, khả năng nhận thức và kinh nghiệm sống của HS.
+ Điều chỉnh tư liệu của bài học hoặc bài tập, dạng bài tập; sắp xếp lại bố cục nội dung học tập và thực hiện những tác động khác để HS được học với một nội dung học tập tinh, chính xác, liên hệ được nhiều môn học/mảng kiến thức khác nhau, có thể liên hệ vận dụng một cách dễ dàng vào thực tiễn.
– Năng lực tổ chức hoạt động học của HS, sử dụng các kĩ thuật dạy học phù hợp trong quá trình dạy học. Người GV phải biết lựa chọn, tổ chức và điểu khiển hoạt động học tập của HS bằng các thủ thuật, thao tác dạy tích cực và hiệu quả. Trong quá trình dạy học, người GV cần:
+ Đặt HS vào vị trí người “khám phá” trong quá trình học tập.
+ Truyền đạt thông tin một cách rõ ràng, dễ hiểu đối với HS.
+ Tạo ra hứng thú, kích thích HS suy nghĩ một cách độc lập và tích cực.
+ Tạo điều kiện cho HS có tâm thế tốt nhất cho sự chiếm lĩnh nội dung học tập.
– Năng lực ngôn ngữ. Năng lực ngôn ngữ là khả năng biểu đạt rõ ràng, mạch lạc ý chí và tình cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ. Năng lực ngôn ngữ có vai trò quan trọng đảm bảo cho người GV thực hiện chức trách người thầy. Nhờ có năng lực ngôn ngữ, GV truyền đạt thông tin, thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ của HS, điểu khiển và điều chỉnh hoạt động nhận thức của HS; nhờ có năng lực ngôn ngữ, GV giải thích, bàn bạc, tổ chức, huy động các lực lượng khác tham gia vào hoạt động giáo dục. năng lực ngôn ngữ của GV biểu hiện ở:
+ Nội dung lời nói sâu sắc, chứa đựng mật độ thông tin lớn.
+ Hình thức lời nói trong sáng, giản dị; sử dụng các phương tiện hỗ trợ phi ngôn ngữ một cách phù hợp và hiệu quả; phù hợp phong cách chức năng.
b) Nhóm năng lực giáo dục:
– Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách cho HS. Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách cho HS yêu cầu GV biết dựa vào mục đích và yêu cầu giáo dục để hình dung trước cần phải giáo dục cho HS những phẩm chất nhân cách nào và hướng hoạt động của mình để đạt được mục đích.
+ Năng lực giao tiếp
+ Năng lực cảm hóa, xử phạt
+ Năng lực tổ chức các hoạt động
Chuyên đề 8.
Chuyên đề cung cấp cho người học những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường tiểu học; các thông tin cốt lõi về chất lượng giáo dục, đánh giá, kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục; triển khai, kiểm soát hoạt động tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục trường tiểu học.
Chất lượng là một khái niệm trừu tượng và khó định nghĩa, thậm chí khó nắm bắt. Trong một nghiên cứu khá nổi tiếng của Harvey và Green (1993), nhằm tổng kết những quan niệm chung của các nhà giáo dục, chất lượng được định nghĩa như tậphợp các thuộc tính khác nhau:
+ Chất lượng là sự xuất sắc (quality as excellence).
+ Chất lượng là sự hoàn hảo (quality as perfection).
+ Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu (quality as Titness for purpose).
+ Chất lượng là sự đáng giá với đồng tiền [bỏ ra] (quality as value for money).
+ Chất lượng là sự chuyển đổi về chất.
Chất lượng được hiểu là đầu vào – quản lý – đầu ra.
Quản lý chất lượng là sản phẩm được nghiên cứu thiết kế triển khai sản xuất bảo dưỡng sản phẩm có ích thõa mãn khách hàng.
Chuyên đề 9.
Chuyên đề cung cấp cho người học kiến thức về vai trò và vị trí của hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học; tạo lập môi trường và phương pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng trong trường tiểu học.
-Vai trò, vị trí của hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học.
+ Tác động của hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng đối với nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục.
+ Hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng đôi với việc nâng cao năng lực nghề nghiệp giáo viên.
-Tạo lập môi trường nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học.
+ Hướng dẫn học sinh nghiên cứu áp dụng tri thức kế hoạch và tổ chức các cuộc thi nghiên cứu khoa học, kĩ thuật ở trường tiểu học.
+ Xây dựng môi trường nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học.
– Quản lí hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường tiểu học.
+ Xác định mục tiêu phù hợp và xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng.
+ Cấu trúc chung của một kế hoạch hay một đề cương nghiên cứu chi tiết thường có những phần sau:
1. Tên đề tài nghiên cứu
2. Tên người thực hiện đề tài nghiên cứu
3. Lí do của việc thực hiện đề tài nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
5. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
6. Bối cảnh và vấn đề/câu hỏi nghiên cứu
7. Phương pháp nghiên cứu: cách thu thập và xử lí số liệu
8. Kết quả nghiên cứu
9. Bàn luận và khuyến nghị
10. Tài liệu tham khảo
Chuyên đề 10.
Chuyên đề cung cấp cho người học nội dung cơ bản về xây dựng văn hóa nhà trường và phát triển thương hiệu nhà trường; văn hóa nhà trường và đạo đức nghề nghiệp; xây dựng văn hóa nhà trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn lịch sử gọi chung là hệ giá trị xã hội. Hệ giá trị này biểu hiện thông qua vốn di sản văn hoá và phương thức ứng xử văn hoá của cộng đồng người, là thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, có khả năng chi phối, điều tiết hoạt động của mọi thành viên sống trong cộng đồng xã hội ấy.
Văn hoá nhà trường có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt đối với xây dựng thương hiệu nhà trường. Bởi lẽ, tính văn hoá là một tính chất đặc thù của nhà trường, hơn bất kì một tổ chức nào. Văn hoá NT tích cực giúp cho người dạy, người học có cảm giác tự hào, hãnh diện vì được là thành viên của tổ chức nhà trường, được làm việc vì những mục tiêu cao cả của nhà trường. Văn hoá nhà trường hỗ trợ điều phối và kiểm soát hành vi của các cá nhân bằng các chuẩn mực, thủ tục, quy trình, quy tắc và bằng dư luận, truyền thuyết do những thế hệ con người trong tổ chức nhà trường xây dựng lên. Khi nhà trường phải đối mặt với một vấn đề phức tạp, chính văn hoá nhà trường là điểm tựa tinh thần, giúp các nhà quản lí trường học và đội ngũ GV hợp tác, phát huy trí lực để có quyết định và sự lựa chọn đúng đắn. Văn hoá NT giúp các thành viên tổ chức thống nhất về cách nhận thức vấn đề, cách đánh giá, lựa chọn, định hướng, hành động… Nó gắn kết các thành viên lại thành một khối, tạo ra những dư luận tích cực, hạn chế những biểu hiện tiêu cực trái với quy tắc, chuẩn mực thông thường của tổ chức. Nó hạn chế những nguy cơ mâu thuẫn và xung đột là không thể tránh khỏi thì văn hoá nhà trường tạo ra hành lang đạo lí phù hợp để góp phần khắc phục, giải quyết xung đột trên nguyên tắc không để phá vỡ tính chỉnh thể của tổ chức nhà trường.
3. Phân tích yêu cầu của công việc và thực tế đòi hỏi để đáp ứng công việc
3.1. Thực trạng chung:
Đơn vị trường Tiểu học Bình Hòa được trang bị cơ sở vật chất khang trang đầy đủ. Phần lớn các lớp đều được trang bị bảng thông minh (Activboard) và hệ thống loa đài khá đầy đủ hỗ trợ trong công tác dạy và học , cũng như công tác kiểm tra phần nghe ( Listening) môn Tiếng Anh vào cuối học kì I và cuối năm học của đơn vị rất tốt.
Học sinh ở bậc tiểu học là độ tuổi tiếp thu tốt nhất cho các môn ngoại ngữ nhưng mức độ nhận thức của các em chưa cao, không đồng bộ nên gây trở ngại không ít cho việc tham gia các hoạt động và kết quả học tập của các em. Đồng thời đây là những năm đầu làm quen với một ngoại ngữ, trong khi vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt tiếng mẹ đẻ của mình. Bên cạnh đó, một số em còn có trở ngại về phát âm nên việc tập đọc, luyện nói đúng chuẩn vẫn luôn là một trở ngại lớn.
3.2. Thực trạng thực hiện các phương pháp dạy học đổi mới, tích cực gây hứng thú cho học sinh:
3.2.1. Giáo viên tìm hiểu thêm các thông tin bổ ích, hổ trợ trên các website trên mạng.
Đối với bộ môn Tiếng Anh nói chung , Tiếng Anh tiểu học nói riêng thì việc luôn luôn đổi mới các hình thức khác nhau, nhằm lôi cuốn học sinh vào trong việc học một môn ngoại ngữ là điều luôn cần thiết và quan trọng. Vì vậy, tôi thường xuyên dành thời gian, để học tập các phương thức giảng dạy từ vựng, mẫu câu thông qua các chương trình dạy và học trên Youtube.com hoặc trên Website Printerest.com chuyên trang giáo dục dạy ngoại ngữ cho lứa tuổi tiểu học. Ngoài ra, việc học tập, nghiên cứu qua mạng Internet cũng góp phần nâng cao kiến thức cho bản thân và học hỏi thêm kinh nghiệm về công tác giảng dạy tiên tiến của nhiều nước trên thế giới.
Các hình thức tổ chức cũng như cách sắp xếp các hoạt động trên các trang mạng đa số đã được giáo viên đúc kết kinh nghiệm thực tế qua mỗi tiết dạy từ đó cho ra những hình thức tổ chức hoạt động hết sức hấp dẫn mới lạ và thu hút sự quan tâm của các em. Các diễn đàn violet, các web “trợ giảng” …vẫn luôn và đang được sự theo dõi của giáo viên cũng như trao đổi kinh nghiệm học tập, nhằm giúp giáo viên tìm ra phương pháp dạy học tích cực, hỗ trợ trong công tác giảng dạy trên lớp.
3.2.2. Giáo viên tham khảo, thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức lớp học sẽ thu hút sự quan tâm của học sinh cho môn học.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển được đánh giá là một quốc gia chưa có thói quen đọc sách từ nhỏ nên việc dạy một bài đọc Tiếng Anh gần 100 từ luôn là một thách thức lớn cho giáo viên đứng lớp.
Hình thức dạy đọc thi đua theo cặp, nhóm, tổ, cá nhân, đọc nối tiếp, đọc thầm chưa được phổ biến rộng rãi trong việc dạy và học Tiếng Anh. Cách hình thức dạy đọc cần được thực hiện, điều chỉnh phù hợp thường xuyên nhằm tạo thành thói quen cho các em cũng như giáo viên trực tiếp giảng dạy.
Thực hiện đóng vai các nhân vật qua các bài đọc, bài hội thoại sẽ giúp các em nhanh bắt kịp ngôn ngữ cũng như tình huống các câu truyện. Từ đó các em sẽ nhớ bài tốt hơn và ứng dụng các mẫu câu, từ vựng vào thực tế chính xác và hiệu quả hơn.
3.3.3. Chuẩn bị đồ dùng dạy học:
Đồ dùng dạy học là một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy và học Tiếng Anh, bên cạnh đó việc sử dụng hiệu quả đồ dùng có sẵn hay tự làm mới là điều đáng chú ý. Giáo viên cần đưa vào sử dụng thường xuyên đồ dùng dạy học, nhằm tạo sự thành thục trong quá trình giảng dạy trực tiếp trên lớp, từ đó mới có thể tối ưu hóa hiệu quả sử dụng. Việc thiết kế, tạo ra đồ dùng dạy học cũng phải dựa trên các yếu tố như tính giáo dục, tính hiệu quả, tính thẩm mỹ, khoa học và hiệu quả sử dụng bền lâu.
3.3.4. Chuẩn bị kỹ giáo án trước khi lên lớp:
Xác định đúng mục đích, yêu cầu và những kiến thức cơ bản cần đạt cho từng tiết dạy:
Xác định rõ mục tiêu cần đạt sau mỗi tiết dạy sẽ giúp học sinh tiếp thu bài học như thế nào và những kiến thức nào cần đạt là nhiệm vụ của giáo viên. Tôi nghiên cứu thật kỹ chương trình, nội dung chương trình cụ thể, bám sát phân bố chương trình theo quy định của từng bài sau đó xác định mục tiêu, yêu cầu của từng bài học.Mỗi hoạt động được xây dựng luôn cần được kiểm chứng sát thực qua mỗi tiết dạy, từ đó rút ra kinh nghiệm, sử đổi sao cho thật phù hợp với khả năng của học sinh. Bởi lẽ, nếu giáo viên đưa ra hoạt động quá phức tạp sẽ gây khó hiểu cho học sinh, mặc khác nếu hoạt động dễ dàng sẽ không gây chú ý với các em và các em sẽ nhanh nhàm chán.
-Xác định phương pháp dạy bài hát cho từng tiết dạy:
Để dạy tốt bài đọc chúng ta cần nghiên cứu kỹ nội dung từng bài từ đó vạch ra phương hướng giải quyết từng bài cụ thể một cách hợp lý nhất. Có rất nhiều phương thức bổ trợ cho việc học tiếng Anh thông qua các hình thức như kể chuyện, bài hát, các đoạn hội thoại giao tiếp. Sử dụng tiếng Anh càng nhiều và thực hành ứng dụng càng nhiều sẽ giúp các em học hỏi thêm càng nhiều từ vựng, đồng thời tạo thêm sự tự tin cho các em trong việc giao tiếp bằng Tiếng Anh.
– Xây dựng kế hoạch bài dạy cụ thể cho từng tiết dạy:
Thiết kế và xây dựng kế hoạch bài giảng trước khi lên lớp là một bước rất quan trọng góp phần cho sự thành công của tiết dạy. Tôi xây dựng kế hoạch bài dạy cho phù hợp với đặc trưng của từng loại bài đọc, nội dung và hình thức phù hợp với đặc điểm từng lớp nhằm mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Và đưa tổ khối, Ban giám hiệu ký duyệt.
Có rất nhiều hình thức tổ chức dạy hát trên lớp. Do đó đối với từng loại hình thức tôi soạn giảng khác nhau:
-Đối với việc soạn giảng truyền thống tôi tôi soạn thật kỹ từng hoạt động giúp học sinh hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn. Tôi đề ra những hoạt động phù hợp với các bài đọc. Với các bài hội thoại có nhiều nhân vật thì phân vai chia lời thoại sẽ giúp các em thêm hứng thú. Ngoài ra, trong những đoạn văn mêu tả ngắn, tôi cho các em đọc nối tiếp câu, nối tiếp đoạn, nối tiếp theo nhóm, theo tổ, theo cặp, và khi các em đã tự tin hơn thì mạnh dạn cho các em đọc nối tiếp theo cá nhân.
-Sử dụng triệt để công nghệ thông tin trong các tiết dạy sẽ giúp cho cả thầy và trò gần gũi nhau hơn, giúp cho các em thích thú và nhanh hiểu bài hơn rất nhiều. Lựa chọn và chắt lọc hình ảnh đẹp, rõ ràng và hợp lý luôn được tôi chú trọng, bởi lẽ hình ảnh không chất lượng sẽ không đạt hiệu quả giáo dục cao nhất. Đồng thời với các bài đọc như những câu chuyện kể, tôi mạnh dạn tự tạo các video clip để các em nhanh hiểu nội dung của bài học, câu chuyện mà không cần giáo viên dịch nghĩa. Qua đó, giúp tiết kiệm thời gian, hạn chế tìm kiếm video clip có sẵn trên các trang mạng Internet mà nội dung không phù hợp với bài học.
4. Đề xuất vận dụng kiến thức, kĩ năng thu nhận được nhằm phát triển công việc trong tương lai
Sau khi tham gia lớp học, được học tập & nghiên cứu, bản thân đề ra phương hướng vận dụng những kiến thức của các chuyên đề trong phát triển nghề nghiệp của mình như sau:
– Nắm vững những kiến thức lí luận từ các chuyên đề bồi dưỡng có liên quan đến hoạt động nghề nghiệp.
– Tích cực vận dụng một cách thường xuyên những kiến thức thu lượm được vào hoạt động công tác của bản thân.
– Thường xuyên chia sẻ với đồng nghiệp trong quá trình công tác.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Mỗi giáo viên Tiểu học có vai trò và tầm quan trọng to lớn đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục Tiểu học. Nâng cao chất lượng giáo viên Tiểu học thông qua bồi dưỡng nâng hạng giáo viên Tiểu học theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp là một biện pháp quan trọng và mang lại những hiệu quả thiết thực. Để có thể không ngừng phát triển nghề nghiệp bản thân, mỗi giáo viên Tiểu học cần có nhận thức đầy đủ, đúng đắn những nội dung của các chuyên đề bồi dưỡng, nắm vững các kĩ năng có liên quan, đồng thời tích cực vận dụng hiệu quả những kiến thức, kĩ năng đã được lĩnh hội trong các hoạt động nghề nghiệp của bản thân.
2. Những kiến nghị, đề xuất:
– Giáo viên: Mỗi giáo viên luôn không ngừng học tập, sáng tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy của mình nhằm tìm ra hình thức tổ chức các hoạt động sao cho phù hợp nhất với học sinh của mình. Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm giảng dạy với đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường nhằm phát huy tối đa hiệu quả cho từng hoạt động được đưa ra, từ đó rút kinh nghiệm và hoàn chỉnh hơn mỗi tiết dạy.
– Lãnh đạo: Kính mong Ban lãnh đạo các cấp quan tâm và tạo điều kiện, hỗ trợ cho các công cụ giảng dạy như: Teacher card, tranh ảnh, hệ thống máy thông minh đầy đủ hơn, cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trên đây là một vài kinh nghiệm tôi muốn chia sẽ trong việc vận dụng các kỹ thuật trong giảng dạy, nhằm giúp học sinh yêu thích hơn môn Tiếng Anh. Chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót, rất mong quý thầy,cô góp ý để cho bản thân tôi, xin chân thành cảm ơn.
Bình Dương, Ngày 28 tháng 09 năm 2021
NGƯỜI VIẾT
Visitor Rating: 5 Stars
Visitor Rating: 5 Stars